Đá ốp tường tự nhiên phong phú về chủng loại màu sắc, kích cỡ và cấu trúc bề mặt. Đá ốp tường tự nhiên được dùng trong cả thiết kế ngoại thất lẫn thiết kế nội thất. Đá trang trí ốp tường tự nhiên luôn đem lại cái nhìn ấn tượng xa hoa sang trọng nên thích hợp để trang trí biệt thự, các quầy bar, các quán café sân vườn, spa, khu nghỉ dưỡng resort farm.
Một căn biệt thự với đá ốp tường bên ngoài
Gian phòng khách với đá ốp tường (đá bóc) ở khu vực để tivi.
Đá tự nhiên cũng trở thành lựa chọn để ốp tường nhà phố, cửa hiệu, nhà hàng hay cổng các công ty, nhà máy hay văn phòng.
Đá là một chất liệu mang tính tự nhiên, sang trọng. Ngày nay, đá tự nhiên không chỉ sử dụng cho ngoại thất, mà còn được sử dụng trong nội thất để thay thế các chất liệu như nhôm, kính, inox…
Sử dụng đá trong nội thất không chỉ làm đẹp cho ngôi nhà mà còn thể hiện cá tính của gia chủ.
Trong nhà tắm, đá sẽ được dùng để ốp lát tường và sàn. Yêu cầu của nhà tắm là sáng, sạch, dễ chùi rửa và đá hoàn toàn có thể đảm bảo tốt yêu cầu này. Bề mặt đá có độ phản chiếu, bóng, chống thấm hiệu quả. Nếu bạn đang lo lắng với việc chống thấm cho tường nhà, hãy nghĩ đến đá như một giải pháp cứu cánh tuyệt vời.
Ngoài sử dụng để ốp lát, đá còn dùng làm các thiết bị vệ sinh như bồn tắm, chậu rửa mặt, chân đỡ, bàn lavabo… Gần đây, có xu hướng dùng đá nguyên bản tự nhiên cho các thiết bị này, song cần chú ý sao cho phù hợp, dùng tạo điểm nhấn thì tốt chứ không nên lạm dụng. Vẻ tự nhiên của đá kết hợp với sự hiện đại của thiết bị sẽ tôn lên vẻ đẹp của phòng tắm.
![]() |
![]() |
![]() |
003 MBVB – Mài Bóng Vàng Bông Kích thước: 7.5×22; 10×20 |
005 BD- Bóc Đen Kích thước: 10×20; 5×20 |
010 GV – Ghép Vàng Kích thước: 10×50 |
![]() |
![]() |
![]() |
012 MBTA – Mài Bóng Thạch Anh Kích thước: 7.5×22 |
017 MBSCL – Mài Bóng Sô Cô La Kích thước: 7.5×22 |
023 Ghép 3 Màu Đỏ Kích thước: 10×50 |
![]() |
![]() |
![]() |
024 CCXV – Chong Chóng Xanh Vàng Kích thước: 5×20 |
030 VGL – Vân Gỗ Lồi Kích thước: 10×20 |
Ngói đất nung
Được chế tạo chủ yếu từ đất sét, qua các công đoạn phức tạp như ủ đất, cán, nhào, đùn ép, hút khí… để tạo thành những tấm nhỏ (galet). Sau quá trình phơi ủ sẽ chuyển sang tạo hình bằng phương pháp dập dẻo. Tùy theo hình dángvà vị trí sử dụng của sản phẩm cuối cùng, ngói được đặt những tên gọi khác nhau.
Ngói mộc được sấy tự nhiên hoặc cưỡng bức đến một độ ẩm cần thiết. Sản phẩm ngói mộc sau khi khô có thể tráng men hoặc không tráng men, được xếp vào lò nung. Dưới tác dụng của nhiệt, thông thường khoảng 1000 °C –1150 °C, đất sét kết khối, rắn chắc lại nên có độ hút nước thấp và hình dáng ổn định.
Một số công nghệ có thể thêm thiết bị, ngược lại một số lại bỏ bớt một vài công đoạn, tất cả đều có ảnh hưởng đếnchất lượng sản phẩm.
Có thể nung ngói trong các lò thủ công hoặc lò tự động, lò liên tục hay gián đoạn. Ngói không tráng men chỉ cần nung 1 lần, riêng ngói tráng men có thể nung 1 hoặc 2 lần.
Ngói đất nung không tráng men
- Ngói 22 v/m². Đây là loại ngói tuy không có tên gọi cụ thể nhưng là loại thông dụng nhất.
- Ngói 20 v/m².
- Ngói 10 v/m².
- Ngói vảy cá, vảy rồng.
- Ngói mũi hài đơn (và kép).
- Ngói liệt: còn gọi là ngói ván (板瓦) hoặc ngói bằng (板瓦).
- Ngói âm.
- Ngói dương.
- Ngói chữ S.
- Ngói ống (hay ngói tiểu) – Ngói câu đầu.
- Ngói úp nóc, ngói chạc 3, chạc 4, ngói đuôi, ngói rìa…
Ngói đất nung tráng men
- Ngói tráng men: Các loại ngói đất nếu được phủ men gốm thông thường, sau khi nung xong được gọi là ngói tráng men.
- Ngói lưu ly: Các loại ngói âm, dương, ống, câu đầu, trích thuỷ, liệt nếu được tráng men thanh lưu ly, hoàng lưu ly hoặc bích lưu ly thì được gọi là ngói lưu ly.
- Ngói vỏ quế, tên chữ là ngói la-qua : là loại ngói ống tráng men nhưng nhỏ và dài hơn, không có chuôi ngói như ở ngói lưu ly
Ngói trang trí
Một số loại ngói trên được chế tạo với kích thước nhỏ, có thể tráng men hoặc không dùng để dán trên mái đã được đúc sẵn (thường là mái betông) được gọi là ngói trang trí vì chúng không có tác dụng chính là lợp (chống mưa nắng).
Ngói xi măng, ngói không nung hay ngói màu
Được chế tạo bởi vữa xi măng và sơn phủ bột màu. Vữa xi măng sau khi trộn được đổ vào khuôn kim loại, được nén chặt bằng búa gỗ (sản xuất thủ công) hoặc rung bằng máy (sản xuất công nghiệp). Sau đó chuyển sang công đoạn bảo dưỡng trong một thời gian nhất định.
Hiện nay, tại Việt Nam, các nhà sản xuất sử dụng hai loại công nghệ chính cho việc sơn phủ lên ngói xi măng: công nghệ khô và công nghệ ướt.
Với công nghệ phủ màu khô: Sơn acrylic được phun lên bề mặt ngói trong trạng thái khô sau khi sấy. Tiến trình này đơn giản như sơn nhà và việc chọn lựa màu sắc phun cho ngói cũng rất dễ dàng. Tuy nhiên, công nghệ này không đáp ứng được nhu cầu về độ bền của màu sắc cho sản phẩm. Sự gắn kết lỏng lẻo giữa lớp sơn acrylic và bề mặt ngói sẽ sớm bị bong tróc theo thời gian. Hơn thế nữa, màu sắc sẽ rất chóng phai do sơn acrylic có tính nhạy cảm cao với tia cực tím.
Trái ngược với công nghệ nêu trên là công nghệ phủ màu ướt WET on WET hiện đang được các nhà sản xuất ngói bê tông hàng đầu thế giới áp dụng. Công nghệ ướt nổi bật ở chỗ bột màu được hoà lẫn với vữa hồ và phun trực tiếp lên bề mặt viên ngói còn ướt, ngay sau khi ngói vừa được định dạng, nhằm tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa lớp màu sơn và bề mặt ngói. Thực tế kiểm nghiệm cho thấy với công nghệ này, màu sắc ngói được giữ lâu bền hơn so với ngói màu làm từ công nghệ khô.
Ngói composite
Một số nơi còn dùng ngói composite vì nó có hệ số giãn nở nhiệt tương thích khí hậu vùng đó, điều mà các loại ngói xi măng hay ngói đất nung không thể đáp ứng.
Ngói Ác – đoa
Ngói Ác – đoa (Ardoise) : là loại ngói khai thác từ đá trầm tích của Pháp, có màu đen nhánh như than đá, hình dáng như kiểu ngói vẩy cá hoặc có hình chữ nhật.
Một số kiểu lợp ngói
Kiểu lợp ngói xi măng
1. Lắp đặt cây mè sao cho khoảng cách giữa các cây mè đều nhau và nằm trong khoảng 320 – 340 mm. Riêng cây mè dưới cùng phải cách điềm mái 345mm và cặp 2 cây mè trên nóc cách nhau chừng 40 – 60mm.
2. Đặt lần lượt từng viên ngói vào khung theo chiều hướng lên từ hàng thấp nhất.
3. Lắp vít vào ngói để giữ viên ngói ổn định tại mỗi 2 hàng.
4. Không trám vữa vào khoảng trống rìa cũng như không tạo những lỗ nhỏ với đường kính 6mm tại rãnh thóat nước trên viên ngói dọc theo chiều dài rìa.
5. Cắt ngói dọc hông sao cho rãnh của chúng càng nhỏ càng tốt. Không trét vữa phủ lên khỏang trống hông mái và không cần tạo lỗ dọc theo hông mái.
6. Phải dùng miếng xốp hay giẻ khô để làm sạch vết vữa xi-măng trên ngói chính và ngói nóc khi vữa có màu trắng (vữa khô).
7. Sơn phủ vữa bằng sơn lên vữa dọc theo nóc và hông mái, đồng thời không là sơn rớt lên ngói chính và ngói nóc.
8. Khoảng cách ngói tại khe mái khoảng chừng 30-50mm và dùng sơn để sơn tại gờ viên ngói được cắt.
9. Không dùng vữa gắn giữa 2 viên ngói nóc, tại giữa ngói nóc với ngói hông mái và xung quanh khe mái bằng mọi cách.
Kiểu lợp thông thường
Trên một mái đã được lắp đặt gỗ hoàn chỉnh, người thợ tính chỉ cần đặt những viên ngói sát nhau hoặc chồng lên nhau theo các gờ chỉ đã được định hình trên viên ngói. Tại các vị trí như nóc, bờ quyết hoặc các chỗ giao của mái, người ta có thể dùng ngói úp nóc, ngói chạc 3, chạc 4 để úp vào và dán lại bằng hồ vữa xi măng.
Một số vùng hay có gió bão, người ta phải xâu dây thép vào những lỗ đã được đục sẵn trên viên ngói và cố định chúng bằng cách buộc vào phần gỗ hoặc sắt bên dưới.
Kiểu lợp ngói lưu ly
Gầy nóc (hay còn gọi là gầy mái)
Trên một mái đã được lắp đặt gỗ hoàn chỉnh, người thợ tính toán để đặt những viên ngói đầu tiên tại nóc và khoá chặt chúng bằng hồ vữa truyền thống hoặc vữa xi măng. Thực chất chính là thao tác sắp xếp, định vị và liên kết các viên ngói tại vị trí góc trên của mái (bờ nóc, bờ quyết)cho công đoạn lợp mái sau này. Trong quá trình gầy mái, ngoài việc định vị, sắp xếp các ngói theo quy cách truyền thống, người thợ còn phải căn chỉnh cho các viên ngói được nằm trên cùng một mặt phẳng, tạo bằng vữa lợp và ngói liệt không men. Dùng hồ vữa truyền thống hoặc vữa xi măng để hoàn thiện bờ nóc, bờ quyết.
Trên đây là những công đoạn khó khăn nhất, đòi hỏi kỹ thuật cao và chiếm nhiều thời gian nhất, bởi những viên đầu tiên sẽ làm căn cứ hay làm chuẩn để lợp ngói phần mái còn lại. Dựa theo hàng ngói đã được định vị ở bờ nóc, bờ quyết, các viên ngói âm dương tiếp tục được xếp dần từ trên xuống dưới. Viên cuối cùng được khóa lại, và cũng để trang trí bằng các viên ngói câu đầu và trích thuỷ.
Lắp dựng con giống
Các con giống như rồng, phụng, tứ linh… hoặc các hình khối trang trí khác có thông thường được chế tạo từ trước được vận chuyển và lắp dựng tại những vị trí cần thiết như đỉnh nóc, đầu hồi…
Lợp ngói liệt chiếu
Liệt chiếu là loại ngói liệt được phủ men toàn bộ một mặt ngói; khi lợp, phần men hướng xuống dưới. Ngói liệt chiếu có tác dụng làm thành một mặt phẳng để dán các loại ngói khác lên trên; mặt men hướng xuống dưới để làm đẹp cho mái khi nhìn từ dưới lên.
Theo chiều dốc mái từ trên xuống, cứ cách khoảng vài lối ngói liệt chiếu, người ta phải đóng thêm những thanh gỗ nhỏ, dài (gọi là lách chặn) để ngăn chặn sự trượt của mái ngói, nếu mái càng dốc, số lượng lách chặn phải tăng.
Kích thước cơ bản là: 180 mm × 140 mm.
Lợp ngói liệt độn hay liệt thí
Là loại ngói liệt không men, được dán trên lớp liệt chiếu, có thể từ 1 đến 3 lớp. Tác dụng của nó là khoá chặt lớp liệt chiếu, tạo mặt phẳng (hơn) để dán các loại ngói khác lên trên.
Lợp mái ngói chính
- Mái ngói âm dương
Ngói âm và ngói dương có hình như là một phần của hình chóp cụt bị cắt bởi một mặt phẳng song song trục tâm, nó có một đầu lớn và một đầu bé. Ngói dương là ngói được tráng men một phần ở mặt lồi, còn ngói âm là ngói được tráng men một phần ở mặt lõm.
Kích thước cơ bản (đầu lớn nhất – đầu bé nhất – chiều dài viên ngói) là: 240-220-240 hoặc 210-190-210 mm. Chưa thấy có tài liệu nào nói về bán kính cong của loại ngói này.
Khi lợp ngói, các viên hàng trên lợp trùm lên 2/3 viên ở ngay hàng sát dưới. Ngói âm lợp dưới, ngói dương lợp úp lên trên khe tạo bởi hai viên ngói âm trên cùng hàng ngang để làm kín nước. Trọng lượng của 1 m² ngói âm dương từ 160–180 kg trong trường hợp ngói hoàn toàn khô.
Liên kết giữa ngói âm và ngói dương là lớp vôi vữa truyền thống hoặc vữa xi măng thông thường. Nếu chất lượng ngói và kỹ thuật lợp không tốt, đặc biệt vào mùa mưa ở Huế, trọng lượng mái thường tăng do độ hút nước của ngói, điều này có thể làm ảnh hưởng đến hệ khung kết cấu công trình. Kinh nghiệm của thợ lợp để mái khỏi bị dột vào mùa mưa là làm sao tạo một độ rỗng nhất định phía dưới viên ngói dương. Ở hàng ngói cuối cùng (tính từ trên xuống), người ta sử dụng ngói câu đầu hoặc trích thuỷ để tăng độ thẩm mỹ của mái ngói.
Trong xây dựng, đối với các lớp ngói hoàn thiện trên cùng, cần có chú trọng đặc biệt về đường phân thuỷ và số lượng hàng ngói đếm theo chiều dọc công trình. Số lượng trung bình số viên ngói (cả âm và dương) cho 1 m² mái lợp là 84 viên khi lợp theo đúng công nghệ truyền thống.
Ngói âm dương thường được sử dụng trong các công trình di tích ở Huế như Thế Tổ miếu, Lăng Thiệu Trị, v.v.
- Mái ngói âm ống
Gọi là mái ngói âm ống vì dùng hai loại ngói: ngói âm (tương tự trên) và ngói ống. Ngói ống là loại ngói có hình ống hai bậc hoặc hình chóp cụt bị cắt bởi mặt phẳng trùng với tâm ống, và được tráng men một phần của mặt lồi.
Kích thước cơ bản (chiều dài toàn bộ – chiều dài hữu ích – đường kính lớn nhất) là: 300-240-170 hoặc 230-180-120 mm.
Về cách lợp, có thể nói tương tự kiểu lợp ngói âm dương. Tuy nhiên vì kích thước viên ngói ống có khác so với ngói dương nên số lượng ngói khác nhau.
Ở hàng ngói cuối cùng (tính từ trên xuống), người ta sử dụng ngói câu đầu hoặc trích thuỷ để tăng độ thẩm mỹ của mái ngói.
- Mái ngói liệt men
Gọi là mái ngói liệt men là do dùng lớp ngói liệt tráng men. Khác với ngói liệt chiếu, viên ngói liệt này chỉ được tráng men một phần trên bề mặt.
Kích thước cơ bản (chiều dài – chiều dài hữu ích – chiều rộng) là: 180-10-180 mm.
Khi lợp, các viên ngói được đan cài nhau theo kiểu lòn ba hoặc lòn tư (lóng ba, lóng tư).
Một số kiểu đặc biệt khác
Với một mái đã được đúc bêtông, người ta có thể tạo hình mái ngói bằng hồ vữa hoặc dán lên bất cứ loại ngói nào người ta yêu thích và có thể gọi đó là mái ngói giả hay mái giả ngói hay giả mái ngói…
Trong trường hợp này, ngói có chức năng trang trí là chủ yếu. Chức năng bao che chống mưa nắng chỉ còn là yếu tố phụ.